核心提示
Tên tôi là Sunday Woodcutter,ệnNụHônMàuNhiệđội hình arsenal gặp everton tôi được số phận an bài với đội hình arsenal gặp evertonđội hình arsenal gặp everton、、
Tên tôi là Sunday Woodcutter,ệnNụHônMàuNhiệđội hình arsenal gặp everton tôi được số phận an bài với một cuộc sống hạnh phúc.
Tôi là đứa con gái thứ bảy của Jack và Seven Woodcutter, Jack là con trai thứ bảy và Seven là người con gái thứ bảy. Ước nguyện của cha là sinh ra một Seven Son, đứa con trai thứ bảy đầy quyền lực, hùng cường và hấp dẫn. Mẹ bảo với cha rằng bảy cô con gái hay bảy đứa con trai, đứa nào sinh đầu tiên cũng được. Jack Junior là con trưởng. Cha đã tự hào và hoan hỉ, phấn khởi và hãnh diện. Ước nguyện của cha đã lịm tắt vào buổi sáng tôi chào đời, rạng rỡ, tươi tắn và khỏe mạnh, là người con gái thứ bảy.
May mắn thay, việc sinh ra đầu tiên không ngăn cản Jack Junior trở thành một thần đồng. Tôi chưa từng biết rõ người anh lớn nhất của mình, nhưng tôi biết huyền thoại về anh ấy. Tất cả những đứa trẻ ở Arilland đều lớn lên dưới cái bóng của Jack, đặc biệt là những người em ruột của anh ấy. Khoảng thời gian nào của tôi cũng bị bao quanh bởi những bài hát tràn đầy cảm xúc và những câu chuyện về thành tích chói lọi của Jack. Một lượng lớn những câu chuyện và bài hát mới tiếp tục được lưu truyền tại miền quê cho tới ngày nay. Tôi đã được nghe tất cả. (À ừ, tất cả ngoại trừ một câu chuyện bị cấm. Tôi vẫn chưa đủ tuổi để nghe nó).
Nhưng tôi biết câu chuyện quan trọng nhất: câu chuyện về sự qua đời của anh ấy, khi anh ấy còn phục vụ trong Đội cận vệ hoàng gia của đức vua. Một ngày nọ, trong cơn phẫn nộ tam bành (theo lời các thi sĩ và người hát rong), anh ấy đã giết chết chú chó cưng của hoàng tử Rumbold. Như một sự trừng phạt, bà tiên đỡ đầu xấu bụng của hoàng tử đã biến Jack Junior thành một con chó lai và buộc anh ấy thế chỗ chú chó con kia. Kể từ đó chẳng ai nghe tin gì về anh nữa.
Mọi người nói gia đình chúng tôi đã chẳng dược như xưa từ lúc ấy. Ước gì tôi có thể thấy cha tôi như miêu tả trong truyện cổ ăn to nói lớn, tự tin và ngoan cố. Bây giờ ông chỉ đơn giản là một người đàn ông khỏe mạnh, trầm lặng, bằng lòng với vị trí của mình trong cuộc sống. Việc cha chẳng ấp ủ lòng trung thành gì với gia đình hoàng tộc của Arilland không phải là một bí mật, nhưng ông không thốt ra một lời nào chống lại họ.
Anh trai thứ hai của tôi là Peter. Người anh thứ ba là Trix. Trix là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được ba tìm thấy giữa những phiến lá vào một ngày mùa đông ở rìa khu Wood trước khi tôi được sinh ra. Mẹ kể lại rằng, tuy Trix không phải là người con trai bà dứt ruột đẻ ra nhưng anh ấy làm cha vui vẻ nhất. Bà đã có quá nhiều con để chăm sóc, còn cần thêm một đứa nào nữa?
Em gái tôi và tôi...
“Cô đang làm gì đấy?”
Sunday dừng lại, ngẩng đầu lên khỏi cuốn nhật kí của mình. Cô đã chọn nơi này vì sự vắng vẻ, tĩnh mịch, bởi con đường mòn ẩn khuất xuyên qua bụi cây thấp dẫn tới những viên đá đổ nát của một cái giếng hoang, chắc chắn cô đã trốn gia đình mình. Và giờ thì, giọng nói cắt ngang dòng suy nghĩ chẳng quen thuộc chút nào. Đôi mắt cô mất mấy giây để định vị, chầm chậm tập trung vào những cái vệt lốm đốm loang lổ của ánh trời chiều chiếu xuyên qua những chiếc lá đang nhảy nhót.
“Xin lỗi?”
Cô đặt một câu thắc mắc lịch sự cho vị khách không quen biết, cố gắng khiến anh ta lộ diện bản thân, liệu anh ta là thực hay chỉ là tưởng tượng, anh ta đã chết hay còn sống, là tiên hay...
“Tôi nói, ‘Cô đang làm gì đấy?’”
Ếch.
Sunday cố ngậm cái miệng đang há hốc của mình lại. Bị bắt gặp bất ngờ, cô nói lắp bắp: “Tôi đang kể chuyện cho chính mình.”
Chú ếch cân nhắc câu trả lời của cô. Chú giữ thăng bằng trên đôi chân sau lốm đốm của mình và chớp chớp đôi mắt lồi to nhìn cô, “Tại sao? Cô chẳng có một ai để kể chuyện cho họ nghe ư?”
Ngoại trừ sự chen ngang, chú vẫn giữ một bầu không khí lịch thiệp đúng mực. Chú ta cũng thông minh đấy chứ, Sunday nghĩ. Chắc hẳn chú ta đã từng là một con người trước khi bị nguyền. Những động vật ở khu Wood từng nói những điều khó hiểu uyên bác và hầu hết đó là sự thật.
“Thực ra thì, tôi có một gia đình khá lớn với rất nhiều chuyện. Chỉ có điều...”
“Chỉ có điều gì?”
“Chỉ là chẳng ai muốn nghe chúng hết.”
“Tôi muốn,” chú ếch nói. “Kể cho tôi nghe câu chuyện của cô đi, câu chuyện mà cô vừa mới viết ra kia, và tôi sẽ lắng nghe.”
Cô thích chú ếch này. Sunday mỉm cười, nhưng chầm chậm gập quyển sách của cô lại. “Cậu chẳng muốn nghe câu chuyện này đâu.”
“Tại sao không?”
“Nó không thực sự thú vị lắm.”
“Nó kể về chuyện gì?”
“Về tôi. Đấy là lí do tại sao không một ai trong gia đình tôi muốn nghe. Họ đã biết hết mọi điều về tôi rồi.”
Chú ếch duỗi dài, vươn người trên tảng đá lốm đốm nắng như thể chú ta đang yên vị trên một băng ghế dài. Cô có thể nhận ra từ ngôn ngữ cơ thể của chú - rất giống một con người hơn là một chú ếch - sẽ chẳng có điều gì gạt bỏ ý định cúa chú ta được. “Tôi chẳng biết gì về cô cả,” chú nói. “Cô có thể bắt đầu câu chuyện của mình rồi đấy.”
Điều này quả là hoàn toàn lố bịch. Lố bịch vì rằng Sunday đang ở giữa khu Wood, nói chuyện với một con ếch. Lố bịch vì rằng chú ta muốn biết thêm về cô. Lố bịch vì rằng chú ta sẽ quan tâm đến câu chuyện của cô. Quả thật rất lố bịch khi chú ta mở cuốn nhật kí của cô ra và bắt đầu đọc.
“Tên tôi là Sunday Woodcutter...”
“Grumble,” chú ếch kêu ộp oạp.
“Nếu cậu định càu nhàu, lầm bầm[2] về tất cả mọi thứ, thì tại sao cậu cứ nằng nặc bảo tôi đọc nó lên?”
[2] Chơi chữ, grumble cũng là càu nhàu, lầm bầm.
“Cô viết tên cô là Sunday Woodcutter,” chú ếch nói. “Tên tôi là Crumble.”
“Ồ!” Mặt cô nóng bừng. Sunday tự hỏi liệu ếch có thể nhận ra con người đang đỏ mặt không hay liệu chúng là một trong số rất nhiều những sinh vật lưỡng cư mù màu của vùng rừng rậm. Cô nhẹ nhàng cúi đầu. “Rất vui được làm quen với cậu, Grumble.”
“Rất sẵn lòng,” Grumble nói. “Làm ơn, tiếp tục với câu chuyện của cô đi.”
Thật là khó xử, Sunday chưa từng đọc to những suy nghĩ của mình cho bất kì ai. Cô hắng giọng vài lần. Hơn một lần cô phải dừng lại sau một câu mà cô đã lỡ nói vấp và phải bắt đầu lại một cách chậm rãi hơn. Giọng cô dường như quá to, những từ ngữ mang cảm giác lạc lõng xa xôi, thỉnh thoảng còn sai và nhầm lẫn; cô cưỡng lại niềm thôi thúc muốn xóa chúng đi hoặc thay đổi chúng khi cô tiếp tục. Cô lo lắng rằng chú - ếch - từng - là - con - người này sẽ nghe thấy những ngôn từ của cô và nghĩ rằng cô ngớ ngẩn và ngu ngốc. Chú ta sẽ chẳng muốn liên quan gì tới cô nữa. Chú ta sẽ cảm ơn cô vì khoảng thời gian cô dành cho cậu, và cô sẽ không bao giờ gặp lại cậu nữa. Tuổi trẻ của cô chỉ đến vậy thôi ư? Cô kém cỏi đến mức không thể tạo ra cuộc trò chuyện thông minh để thu hút đối phương, đến mức cô sẵn sàng tự nguyện phơi trần tâm hồn mình cho một người hoàn toàn xa lạ sao?
Sunday nhận ra, khi cô tiếp tục đọc, nhưng điều đó chẳng còn quan trọng nữa. Grumble sẽ hiểu cô vì chính con người thực sự của cô.
Bởi đã ngồi rất lâu dưới cây và viết, cô nghĩ việc đọc sẽ mất nhiều thời gian, nhưng Sunday đã đến hồi kết gần như ngay lập tức. “Tôi đã định tiếp tục về những người chị em gái của mình,” cô bối rối xin lỗi, “nhưng…”
Chú ếch im lặng một cách kì lạ. Chú ta nhìn chằm chằm vào khu Wood.
Sunday ngoảnh mặt về phía mặt trời. Cô e sợ những lời nói tiếp theo của chú ta. Nếu cậu ta không thích mẩu chuyện, thì cậu ta không thích cô, và tất cả mọi thứ cô đã từng làm trong suốt cuộc đời mình sẽ chẳng là gì cả, vô ích và vô nghĩa. Mọi thứ thật ngớ ngẩn, cô cũng ngớ ngẩn, lố bịch, thỉnh thoảng nhạt nhẽo, nhưng cô hứa với Chúa rằng bây giờ cô sẽ không nhạt nhẽo khô khốc nữa, dù cho chú ếch kia có nói gì đi chăng nữa. Và rồi, cuối cùng:
“Tôi nhớ một đêm đông đầy tuyết. Trời bên ngoài quá lạnh đến nỗi đầu ngón tay sẽ bốc khói nếu đặt chúng lên khung cửa sổ. Tôi đã thử việc đó chỉ duy nhất một lần.” Cậu ta cất tiếng ộp oạp kéo dài. “Tôi nhớ ngọn lửa ấm áp nổ tí tách trong lò sưởi, nó rất to. Ở đó có ruột chú chó con, nó luôn đành cho tôi sự yêu mến. Tôi là cả thế giới của nó. Nó cần tôi và tôi cảm giác như... như tôi có một mục đích sống trong đời. Khi ấy, tôi đã rất hạnh phúc. Có lẽ đó là quãng hạnh phúc nhất tôi từng có trong suốt cuộc đời.” Chú ếch nhắm mắt và cúi đầu. “Tôi không nhớ nhiều lắm về cuộc đời trước kia của tôi. Nhưng bây giờ, chỉ bây giờ, tôi đã nhớ được điều đó. Cảm ơn.”
Sunday đan những ngón tay đang run rẩy của mình vào nhau và nuốt cục nghẹn trong cổ họng. Trước mặt cô chính xác là một linh hồn người trong cơ thể loài ếch, và cậu ấy đang buồn. Cô không biết có điều gì trong trang viết của cô đã làm xúc động chú ếch đến vậy, nhưng đấy chẳng phải là vấn đề chính. Cô chạm vào chú ta. Không phải chỉ như một con ếch mà như một con người. Một sự đáp lại tử tế nhẹ nhàng mà Sunday chưa bao giờ có thể tưởng tượng ra. “Tôi rất vinh hạnh.” Cô nói, bởi vì cô thực sự cảm thấy thế.
“Và rồi tôi xen ngang vào.” Grumble chợt chuyển giọng từ tông trầm mơ màng sang giọng bông đùa, “Hãy tha thứ cho tôi. Như cô có thể tưởng tượng đấy, chẳng có mấy ai ghé qua đây. Cô làm tôi cảm thấy vinh hạnh khi được đắm chìm trong những trang viết của cô, quý cô tốt bụng ạ. Cô có viết thường xuyên không?”
“Có chứ. Mỗi buổi sáng, mỗi buổi tối và bất cứ lúc nào tôi có thể tranh thủ giữa khoảng thời gian ấy.”
“Thế cô luôn luôn viết về gia đình mình à?”
Sunday dùng ngón trỏ lật giở những trang nhật kí - món quà của bà tiên đỡ đầu, Joy của cô. Đây là một thói quen mỗi khi cô bồn chồn lo lắng. “Tôi e ngại phải viết về bất kì điều gì khác.”
“Tại sao lại như thế?”
Có lẽ bởi sự trung thực đang lan tỏa hay bởi cậu ta là một con ếch chứ chẳng phải một con người, cô cảm thấy thoải mái, dễ chịu đến lạ lùng khi ở cùng Grumble. Cô đã kể cho chú ta rất nhiều về cuộc sống của cô, nhiều hơn cho bất cứ ai trước đó từng bận tâm muốn biết. Tại sao cô lại phải dừng lại bây giờ? “Những thứ tôi viết... à... ừ... chúng có xu hướng trở thành hiện thực. Và không phải theo cách tốt đẹp nhất.”
“Ví dụ như?”
“Tôi đã không muốn thu lượm những quả trứng vào buổi sáng, vì vậy tôi đã viết là tôi không phải làm thế. Tối hôm đó, một con chồn đã lẻn vào chuồng gà. Chẳng ai đi lấy trứng vào sáng hôm đó. Một lần khác, tôi đã không muốn đi cùng gia đình tới chợ.”
“Thế chiếc xe bị hỏng bánh à?”
“Tôi đã ốm một trận và nằm liệt giường trong một tuần,” cô nói với một nụ cười. “Từ ân hận cũng không thể diễn tả hết được trong trường hợp này.”
“Tôi đoán là không,” Grumble nói.
“Và giờ cậu đang băn khoăn liệu điều gì sẽ xảy ra nếu tôi viết rằng cậu được giải thoát khỏi lời nguyền.”