Thiển nghĩ, cả cơ quan chủ quản (Tổng LĐLĐ Việt Nam) và cơ quan quản lý ngành (Bộ GD-ĐT) cần xử lý việc này một cách hết sức thận trọng, thiện chí, với tinh thần trách nhiệm cao nhất để không làm đổ vỡ một mô hình tốt về tự chủ đại học.
Trường ĐH Tôn Đức Thắng cũng cần hết sức thiện chí và hợp tác để cùng với Tổng LĐLĐ Việt Nam và Bộ GD-DT xử lý vụ việc thấu tình đạt lý. Ai cũng biết, một trong những "đặc tính" quan trọng của người trí thức thực sự đó là sự khiêm nhường và cầu thị.
Mô hình tự chủ của Trường ĐH Tôn Đức Thắng sụp đổ là điều rất đáng tiếc. Ai sẽ là người chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ không đáng có ấy? Ai sẽ gánh gánh nợ mà Trường ĐH Tôn Đức Thắng đang phải vay để đầu tư? Chẳng lẽ phần thiệt thòi luôn thuộc về người học và gia đình họ?
Để mô hình tự chủ của Trường ĐH Tôn Đức Thắng tiếp tục tồn tại và phát triển, thiết nghĩ, nhà trường vẫn cần đến sự ‘góp mặt’ của đương kim hiệu trưởng trong đội ngũ các cán bộ quản lý, quản trị, ví dụ như anh ấy có thể làm Chủ tịch Hội đồng trường chẳng hạn.
Không có nguyên tắc nào là không có ngoại lệ, chuyện tương tự cũng đã xảy ra tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam: Năm 2015, Hiệu trưởng nhà trường lúc bấy giờ đã trên 61 tuổi, quá tuổi quản lý theo luật định, nhưng lo cho công cuộc tự chủ của nhà trường vừa mới bắt đầu có thể gặp trục trặc khi hiệu trưởng mới còn chưa đủ kinh nghiệm, Bộ trưởng Bộ chủ quản đã đề nghị Thủ tướng cho phép hiệu trưởng (cũ) chuyển sang làm Chủ tịch HĐT. Đề nghị ấy đã được Thủ tướng thông báo đồng ý (bằng văn bản) gần như ngay lập tức!
Bây giờ, sau ngày 1/7, những việc như thế do HĐT quyết định cả, thuận lợi hơn 4 năm trước rất nhiều. Cũng nên thừa nhận một thực tế: những người có năng lực thường là những người có cá tính. Người sử dụng nên biết chấp nhận, cảm thông với cá tính của họ, biết ‘gạn đục khơi trong’ vì sự nghiệp chung.
Tuy nhiên, muốn nói gì thì nói, việc bầu chọn và bổ nhiệm nhân sự vẫn phải chấp hành theo tinh thần của Nghị quyết TW 6-NQ/TW, Nghị quyết TW 19-NQ/TW và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học (Luật số 34) và Quyết định 105 của Ban chấp hành TW về công tác cán bộ.
Cụ thể, Khoản 3, Điều 16, Luật số 34 qui định rõ thẩm quyền quyết định nhân sự của trường đại học. Với quy định này, thành viên HĐT được chia thành 3 nhóm: (i) Thứ nhất, nhóm thành viên đương nhiên không do bất kỳ cơ quan nào chỉ định, gồm có bí thư cấp ủy, hiệu trưởng, chủ tịch công đoàn và đại diện ban chấp hành đoàn trường (là người học); (ii) Thứ hai, nhóm thành viên trong trường được tập thể giảng viên, viên chức và người lao động bầu; và (iii) Thứ ba, nhóm thành viên ngoài trường. Trong nhóm này, có thành viên là đại diện cơ quan quản lý do cơ quan quản lý cử; còn lại phải do tập thể người lao động, giảng viên, viên chức cơ sở giáo dục bầu.
Một điều cần lưu ý là đối với các thành viên đương nhiên của HĐT, cơ quan quản lý không có quyền chỉ định hay ‘quy hoạch’ mà phải bầu chọn theo qui định của pháp luật.
Nếu có quy hoạch, thì quy hoạch đó phải tuân thủ đề án vị trí việc làm và đề án nhân sự mà cơ sở giáo dục đã trình cho cơ quan có thẩm quyền thông qua.
Đối với các thành viên do tập thể giảng viên, viên chức người lao động bầu thì cơ quan quản lý càng không thể chỉ định, cử, hoặc “quy hoạch” vì nếu làm như vậy, quyền của tập thể giảng viên, viên chức và người lao động của cơ sở giáo dục bị xâm phạm.
Còn với Điều 16, HĐT đại học công lập tự chủ có thẩm quyền quyết định hiệu trưởng nhà trường theo thủ tục quy định tại Quy chế tổ chức và hoạt động của trường và trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận. Nghĩa là, hiệu trưởng trường đại học do HĐT thực hiện quy trình bầu theo Quy chế tổ chức và hoạt động mang tính nội bộ của cơ sở giáo dục.
Cơ quan quản lý có thẩm quyền ra quyết định công nhận kết quả bầu các chức danh Chủ tịch HĐT và hiệu trưởng do HĐT bầu mà thôi.
TS Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp, Bộ GD-ĐT: "Cần xem xét lại một cách nghiêm túc vai trò của bộ ngành chủ quản"
TS Hoàng Ngọc Vinh
Để giải phóng tiềm năng cho trường đại học, trước hết cần gỡ bỏ các khâu quản lý trung gian với nhà trường.
Do cơ chế chưa hoàn thiện nên có nhiều thủ tục trước đây vẫn duy trì kiểu như thời bao cấp và vì thế, người ta vẫn đeo bám hình bóng của cơ quan chủ quản.
Trường ĐH Tôn Đức Thắng là đại học công, khi tự chủ thì tài chính dư ra trong quá trình hoạt động sẽ thuộc sở hữu công, không thuộc sở hữu của riêng trường. Khi sử dụng tài sản công, trường sẽ phải có trách nhiệm giải trình trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không phải giải trình trước tổ chức chính trị xã hội về hoạt động giáo dục.
Chấm dứt can thiệp vào hoạt động tự chủ của các trường là việc làm cần thiết để thực hiện Luật Giáo dục Đại học sửa đổi và Nghị quyết 19, Hội nghị TƯ 6 khoá 12 về việc thu gọn đầu mối quản lý, tinh giản biên chế.
Mô hình bộ ngành chủ quản chỉ nên tồn tại thời kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp.
Có thêm bộ ngành chủ quản thực chất chỉ thêm một tầng nấc trung gian với không ít những thủ tục hành chính, khiến chi phí giao dịch gia tăng, mất thời gian và hiệu quả thấp lại không mang nhiều giá trị gia tăng cho người học. Trừ những trường công lập thuần tuý (nghĩa là không sử dụng tài chính qua nguồn thu học phí của người học, ngân sách Nhà nước lo 100%) thì cần có cơ quan chủ quản để quản lý và kiểm soát.
Việc bỏ bộ chủ quản đã được đưa vào Nghị quyết 25/2005/NQ-CP về Đổi mới cơ bản toàn diện giáo dục đại học giai đoạn 2006-2020 nhưng hầu như chưa thực hiện.
Ở đây cần chỉ thẳng ra vấn đề bộ ngành đều muốn quản lý các trường như trước vì nhiều động cơ khác nhau, và cũng có một số trường nào đó vẫn e ngại không dám tách rời khỏi “bầu sữa” ngân sách. Không ai muốn tự giác từ bỏ những cơ chế do mình sinh ra và có thể trục lợi từ cơ chế ấy qua các thủ tục.
Nghị định Hướng dẫn Luật Giáo dục Đại học mới phải có quy định khi sử dùng tài sản công buộc phải chịu sự kiểm toán Nhà nước để đối chiếu việc tự chủ có vi phạm các quy định trong luật hiện hành hay không.
Bộ ngành không nên kiểm soát, kiểm tra mà chỉ nên yêu cầu trường giải trình trách nhiệm và thực hiện cam kết. Còn nhà trường chịu kiểm toán Nhà nước và kiểm định theo quy định.
TS Lê Viết Khuyến, Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Việt Nam: "Nếu đã đồng ý để trường tự chủ, cơ quan chủ quản phải hy sinh quyền lợi của mình"
Muốn tự chủ đại học phải chấp nhận bỏ thói quen truyền thống, mà vấn đề đầu tiên là bộ chủ quản và cơ chế bộ chủ quản.
TS Lê Viết Khuyến (Ảnh: Nguyễn Thảo)
Cơ chế bộ chủ quản là cơ chế tập quyền, không có hội đồng, chỉ có cấp trên – cấp dưới.
Từ trước đến nay cơ chế tập quyền này áp dụng với đa số các trường. Các trường theo chỉ đạo của cơ quan cấp trên để triển khai hoạt động. Không có khái niệm trao tự chủ cho trường mà chỉ là phân bổ quyền lực cho cấp dưới.
Cơ chế thứ hai mà chúng ta đang hướng đến là định chế hội đồng: Không có cơ quan chủ quản mà mà quyền lực được trao cho một tập thể lãnh đạo chứ cũng không tập trung về hiệu trưởng. Hội đồng định ra đường hướng hoạt động của trường và bổ nhiệm hiệu trưởng.
HĐT phải là cơ quan quyền lực cao nhất, hoạt động theo nguyên tắc bỏ phiếu ra nghị quyết chứ không phải tự hiệu trưởng quyết định. Như vậy mới là một trường tự chủ cao.
Nếu Chính phủ, Nhà nước đã chọn đi theo hướng tự chủ thì phải chọn HĐT và xóa bỏ bộ chủ quản. HĐT là cơ quan quyền lực nhất và phải xóa bộ chủ quản chứ không thể tồn tại cả hai.
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của Chính phủ, Nghị quyết 89/NQ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ, Nghị quyết 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của TW đều khẳng định giáo dục đại học phải chuyển sang cơ chế tự chủ.
Để triển khai, trong đó có Trường ĐH Tôn Đức Thắng cùng hơn 20 trường khác và sẽ còn nhiều trường hơn nữa, những điều kiện ràng buộc cũng phải xóa đi chứ không thể tồn tại tư duy cũ.
Nếu bắt bẻ Trường ĐH Tôn Đức Thắng hay trường nào đó và cứ lấy văn bản cũ áp dụng là sai chứ không phải nói trường làm sai.
Muốn đánh giá đúng – sai phải đánh giá bằng đề án mới của nhà trường mà Chính phủ phê duyệt, trong đó có những cái khác với cơ chế hiện hành.
Hiện nay có rất nhiều bộ, ngành nơm nớp lo “mất con”. Nếu đã lo như vậy, tại sao còn đồng ý cho trường tự chủ? Còn nếu đã đồng ý, bộ, ngành phải hy sinh quyền lợi của mình.
Nếu không tháo gỡ những rào cản đó, sẽ không chỉ Trường ĐH Tôn Đức Thắng mà tất cả các trường khác đều sẽ vướng chuyện này.
Ngân Anh – Lê Huyền – Thúy Nga (ghi)
Trường Tôn Đức Thắng và Tổng liên đoàn bất đồng về "nhiệm kỳ hiệu trưởng"
Những bất đồng giữa trường và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xảy ra khi nhà trường triển khai các công việc để áp dụng đúng Luật Giáo dục Đại học sửa đổi.
Tổng LĐLĐ VN gặp gỡ báo chí chiều ngày 10/6. Ảnh: HQ
Cụ thể, hiệu trưởng nhà trường không đồng ý để Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán nhà trường và Kiểm toán Nhà nước phải có công văn gửi Tổng LĐLĐ Việt Nam; Không đồng ý cho Đoàn kiểm tra của Tổng LĐLĐ Việt Nam kiểm tra tài chính, tài sản theo quy định của pháp luật; Sau khi có dự thảo báo cáo kết quả kiểm tra thì nhà trường tiếp tục phản ứng; Đoàn giám sát của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tiến hành giám sát nhà trường, khi có báo cáo kết quả thì trường phản ứng gửi văn bản tới Chủ tịch Quốc hội với những lời lẽ không đúng mực.
Ngoài ra, Thường trực Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam đã 5 lần mời Ban giám hiệu Trường ĐH Tôn Đức Thắng ra họp bàn về sự phát triển của nhà trường. Nhưng đến ngày 31/5/2019, Ban Giám hiệu mới cử 2 hiệu phó ra dự họp, hiệu trưởng không tham dự.
"Có dấu hiệu lạm quyền"
Tổng LĐLĐ Việt Nam cho rằng có dấu hiệu lạm quyền của hiệu trưởng nhà trường.
"Hiệu trưởng nhà trường có dấu hiệu lạm quyền khi triệu tập và chủ trì họp Hội đồng trường bất thường mà không báo cáo, đề nghị với Chủ tịch Hội đồng trường là ông Bùi Văn Cường. Vì lý do đi công tác nước ngoài, Chủ tịch Hội đồng trường đã yêu cầu lùi thời gian tổ chức cuộc họp. Tuy nhiên Hiệu trưởng nhà trường vẫn chủ trì cuộc họp và ra các quyết nghị, trong khi quy định tại Điều lệ Trường Đại học thì chỉ có Chủ tịch Hội đồng trường mới có quyền chủ toạ cuộc họp Hội đồng trường" - phía Tổng LĐLĐ Việt Nam thông tin.
Liên quan đến chức danh giáo sư của ông Lê Vinh Danh mà Tổng LĐLĐ Việt Nam đề nghị Bộ GD-ĐT xem xét, đơn vị này giải thích rằng do có ý kiến công dân về tính hợp pháp của trường đại học đã công nhận học hàm này.
Tài sản 3.000 tỷ?
Về việc hỗ trợ tiền, tài sản, Tổng LĐLĐ Việt Nam thông tin: Trường ĐH Tôn Đức Thắng được hình thành từ chủ trương của LĐLĐ TP.HCM nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức công đoàn (và của TP.HCM) trong những năm đầu đổi mới. Qua nhiều lần thay đổi nhưng toàn bộ tài sản, cơ sở vật chất với giá trị đầu tư gần 3.000 tỉ đồng và trên 100 ha đất cùng bộ máy, nhân sự kể từ ngày đầu thành lập cho đến nay đều thuộc về tổ chức công đoàn.
Theo Điều 28 Luật Công đoàn, về tài sản thì khi Trường ĐH Tôn Đức Thắng chuyển giao về cho Tổng LĐLĐ Việt Nam năm 2008, biên bản bàn giao của UBND TP.HCM ngày 23/9/2008 xác định đất và tài sản trên đất thuộc sở hữu của Tổng LĐLĐ Việt Nam, gồm: Cơ sở 1 tại địa chỉ 98 Ngô Tất Tố (phường 9, quận Bình Thạnh, TP.HCM) có diện tích 2.800 m2; cơ sở 2 có diện tích 90.725 m2 (tại phường Tân Phong, quận 7, TP.HCM).
Về tài sản trên đất nguyên giá theo biên bản bàn giao là hơn 80 tỉ đồng và giá trị còn lại là hơn 51 tỉ đồng. Sau đó Tổng LĐLĐ Việt Nam giao lại cho Trường ĐH Tôn Đức Thắng.
Ngoài ra, từ năm 2008 đến nay, Tổng LĐLĐ Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện cho trường một số cơ sở nhà đất và tài sản trên đất, các khoản cấp, cho vay… như giao quyền quản lý và sử dụng cơ sở tại 22 Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Phúc, TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa với diện tích 29.189 m2 và tài sản trên đất. Tài sản này được xác định trị giá mấy trăm tỉ đồng. Tiếp đó là cơ sở tại khóm 6, phường 9, TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau có diện tích 21.616 m2 trị giá khoảng 100 tỉ đồng.
Về hỗ trợ tài chính, nhà trường được LĐLĐ TP.HCM cấp hơn 8,3 tỉ đồng; được Tổng LĐLĐ Việt Nam cùng LĐLĐ TP.HCM cho vay không tính lãi hơn 187 tỉ đồng đầu tư cơ sở vật chất giai đoạn 2009-2015.
"Số tiền, tài sản mà Tổng LĐLĐ Việt Nam đã hỗ trợ trường hàng nghìn tỉ đồng bao gồm nhiều hình thức: Cấp, cho vay, giao quản lý, sử dụng và đề nghị cơ quan có thẩm quyền giao đất..., chứ không phải duy nhất là hình thức cấp như một số báo nêu. Từ nguồn tài sản này, cùng với sự nỗ lực của thầy và trò nhà trường, đến nay khối tài sản đã gia tăng lên khoảng 3.000 tỉ đồng" - đại diện Tổng LĐLĐ Việt Nam khẳng định.
Cách đây một tháng, trong lễ thực hiện kế hoạch 5 năm, ông Lê Vinh Danh cũng khẳng định khối tài sản đã gia tăng hiện nay trị giá 2.200 tỷ đồng là tài sản đầu tư trên đất, không bao gồm giá trị đất, các trường công.
Cũng giống như những lần trước đó, Trường ĐH Tôn Đức Thắng tiếp tục phản bác các thông tin mà TLĐ đưa ra; thậm chí cho rằng kết luận trường chống lệnh là "vu khống, bôi nhọ". Xem phản hồi TẠI ĐÂY.
Công Nguyên - Thanh Hùng
ĐH Tôn Đức Thắng: "Quy định của Tổng LĐLĐ không thể áp dụng cho trường"
-Trường ĐH Tôn Đức Thắng cho rằng đa số nội dung Tổng LĐLĐ Việt Nam chỉ đạo Hội đồng trường và Ban Giám hiệu đa số không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
评论专区