Năm 1556, khi Lê Anh Tông lên ngôi, ông được cử vào cung dạy học cho vua, được vua Lê trọng dụng. Đến năm sau, lại được thăng chức Cấp sự bộ khoa kiêm quản lý tài chính, lần lượt giữ qua các chức Tả thị lang bộ binh, tống kí lục chính dinh.
Đến năm 1580, thời Lê Thế Tông, ông sang làm Tả thị lang bộ lại, vào hầu vua trong điện Kính diên, kiêm học sĩ Đông các. Lê Thế Tông còn trẻ, lại mời ông ra làm thầy dạy.
Đến khi ông mất, thọ 69 tuổi được đích thân nhà vua truy tặng Thượng thư bộ Công, gia thăng Thái Bảo.
Theo sử sách, đền thờ Nguyễn Văn Nghi được xây dựng từ năm 1617 niên hiệu Hoàng Định thứ 18 đời vua Lê Kính Tông (1600-1619). Đến năm 1628, con trai thứ hai của ông là Binh bộ thượng thư Đăng quận công Nguyễn Khải đã mở rộng thêm quy mô kiến trúc.
Cháu ngoại của ông là Lê Khắc Tuy- tri phủ Hà Trung cùng dân 14 xã trong huyện Đông Sơn tu bổ hoàn chỉnh vào tháng 9 năm 1632, đền thờ được tôn tạo đúng vị trí ban đầu.
Khi còn sống, ông giương cao đạo học chốn quê hương và tích cực hỗ trợ cho các nho sinh trong vùng, ban tiền, ban của để họ có thể tiếp tục theo đuổi sách thánh hiền. Tới khi ông mất, đền thờ được dựng lên. Mỗi khi có chuyện liên quan tới học hành thi cử, người dân lại đến kính ông, thắp một nén nhang trước lúc lên đường. Những người theo đạo Nho, ra vào cửa Khổng sân Trình đều xem ông như bậc thầy học lớn để noi theo.
Khu đền thờ bằng đá 'độc nhất vô nhị'
Khu đền thờ - lăng mộ Nguyễn Văn Nghi với tổng diện tích gần 4ha bao gồm nhiều thành phần kiến trúc với chức năng khác nhau được bố trí theo kiểu "Nội công ngoại quốc", gồm 2 vòng thành khép kín: Thành đất (thành ngoại) ở ngoài, thành đá (thành nội, rộng tới 16.000m2) ở trong.
Bên trong thành nội là các cụm kiến trúc gỗ được xây dựng theo hình chữ "Công", chữ "Tam", chữ "Nhị" và "Nhất" rất tiêu biểu cho lối kiến trúc thời hậu Lê.
Đường dẫn từ thành ngoại vào trong khu nội viên được lợp đá tảng, hai bên là hàng chó đá, ngựa đá, voi đá và tượng thần hộ pháp.
Hai chiếc bia đá rộng hơn 2,5m đối xứng hai bên, một chiếc bao gồm cả phần mái che cũng được đục nguyên khối không tách rời. Trên tấm bia là từng con chữ và hoa văn được khắc tinh tế.
Cổng vào hình mái vòm, bên trên có khắc ba chữ "Tướng công môn". Tường đá bao bọc cao tới gần 2m, bề rộng 1,5m dựng bằng hai hàng đá tảng, ở giữa đổ đất nện, phía trên là những phiến đá hình mai rùa úp xuống. Tính chiều dài bao phủ của tường thành nội cũng đến cả cây số, nhưng do nhiều lý do, một phần của tường thành đã bị chuyển ra làm cầu cống nên mất mát không ít.
Ông Nguyễn Xuân Lọc, người trông đền cho biết, cứ đến ngày lễ, Tết, nhất là ngày nhà giáo, ở đền lúc nào cũng rộn rã tiếng người. Người đến đây cũng chẳng phải vì cầu danh, cầu lợi mà là đến để tri ân một người thầy lớn, đạo học lớn của vùng. Vào các kỳ thi đại học, các cháu học sinh thường đến thắp nén hương để cầu được những điều tốt đẹp nhất trong thi cử.
" alt=""/>Chuyện về người thầy dạy hai đời vua ở Thanh HóaKhi chỉ còn hai anh em nói chuyện với nhau, Tuệ nói từ khi Trí không liên lạc về, anh lo lắng đến mất ngủ vì không biết anh còn sống hay đã chết. Tuệ nói ân hận vì đã bắt anh trai đi trốn và dằn vặt đến mức muốn chết đi cho xong. "Trên cõi đời này, anh không tin em thì anh không tin ai được nữa đâu", Tuệ nói. Trí đáp: "Tao mới ra tù!".
Để che giấu cho anh trai, Tuệ đưa thẻ tín dụng cho Trí để chi tiêu với lý do cả nhà vợ đã biết anh đi Tây về. Tuệ cố ngăn Trí không nói ra sự thật với mọi người, kể cả vợ mình chuyện mới ra tù và muốn anh trai không phải lo lắng chuyện tiền bạc.
Khanh (Thanh Hương) là vợ của Tuệ. Biết Khanh mê tiền nên dù anh trai đã tặng Khanh nước hoa làm quà nhưng Tuệ vẫn nghĩ ra kế hay để vừa được lòng vợ, vừa đẹp mặt cho Trí. Không những bắt anh trai cầm thẻ tín dụng của mình, Tuệ còn đưa cho Trí phong bì chứa 500 USD nhờ Trí đưa cho Khanh và nói đó là quà.
Ở diễn biến khác, bà Thư (Vân Dung) ra quán của Khanh và được nhân viên thông báo Khanh ở nhà để chuẩn bị cỗ bàn vì anh chồng trở về đoàn tụ gia đình sau 10 năm xa nhà khiến bà Thư bối rối.
Mối quan hệ của bà Thư với Trí và Tuệ là gì? Liệu hai anh em có che giấu được việc Trí mới đi tù về? Diễn biến chi tiếtNgười một nhàtập 1 lên sóng VTV3 vào 21h40 tối nay.
Tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu Kabuki Những mỹ nữ, công diễn tại Nhật vào khoảng thế kỷ 17. Nội dung tác phẩm xoay quanh 5 lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những cô gái xinh đẹp, tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say.
Mỗi chương là một lần Eguchi ngủ cùng cô gái khác nhau. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc ẩn giấu sâu trong tâm hồn mình. Điểm đặc biệt nhất của tác phẩm là không chỉ đơn thuần miêu tả nét đẹp của người con gái mà khéo léo lồng ghép văn hóa Nhật Bản vào trong từng câu chữ, từ đó phản ánh đời sống xã hội đã mang đến cho con người nhiều suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống, cái chết, quá khứ và tương lai.
Nhà văn Nhật Chiêu nhận định: “Người đẹp ngủ mêlà tác phẩm huyền bí bậc nhất. Các sáng tác của nhà văn Kawabata không dễ đọc, dễ hiểu dù rất phổ biến ở Việt Nam. Đây là điều hiếm thấy khi mà tác phẩm vừa đạt tới mức độ hàn lâm trong tư tưởng, vừa được người đọc đón nhận”.
Nhà văn Nhật Chiêu cũng dành nhiều lời tán dương cho bản dịch mà Quế Sơn thể hiện. Đặc biệt ở nhan đề, dịch giả đã sử dụng cụm từ “ngủ mê” mà không phải “ngủ say”. Điều này mang lại cảm giác huyền bí, đậm phong cách Nhật Bản.
Dịch giả Quế Sơn chia sẻ về quá trình chuyển ngữ 'Người đẹp ngủ mê'.
Cũng trong buổi giao lưu, nhà văn Nhật Chiêu trình bày thêm về những vấn đề gây tranh cãi trong tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê.
"Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây giống như ngủ với một ông Bụt vô hình. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.
Kawabata Yasunari đã khéo léo trong việc đưa văn hóa đặc trưng của Nhật Bản vào trong từng câu chữ của Người đẹp ngủ mê. Việc ‘ngủ với Bụt ‘trong văn hóa Việt Nam gây nhiều tranh cãi nhưng lại bình thường với văn hóa của người Nhật.
Văn phong của Kawabata Yasunari trongNgười đẹp ngủ mêmang vẻ đẹp thoát tục, thanh cao. Nhiều nhà văn nổi tiếng trên thế giới cũng bị ảnh hưởng bởi phong cách của ông. Theo nhà văn Nhật Chiêu, Người đẹp ngủ mênên được thưởng thức với một tâm thế khác theo hướng tích cực hơn chứ không nên đánh đồng tác phẩm này với những văn hóa phẩm đồi trụy.
Chia sẻ về quá trình chuyển ngữ Người đẹp ngủ mê, trong quá trình dài dịch tác phẩm, có nhiều đoạn văn đã ám ảnh khiến dịch giả Quế Sơn không thể quên được. Trong đó, ông đặc biệt ấn tượng với câu thoại: “Em có bao giờ quên, em đã một thời yêu anh”.
Nhà văn Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ở Osaka. Kawabata mồ côi từ năm 2 tuổi và sống cùng ông bà ngoại. Những tác phẩm của Kawabata Yasunari có tính độc đáo cao, đạt tới sự tinh mỹ trong ngôn từ, phản ảnh nhiều phương diện độc đáo trong văn hóa của người Nhật. Tại Việt Nam, một số tác phẩm của Kawabata Yasunari được dịch và xuất bản, gồm: Tiếng núi, Hồ, Xứ tuyết, Bồ công anh.
Thảo Nguyên